Nhưng đến thời nhà Nguyễn, do kị húy với tên vương phi Hồ Thị Hoa mà tên tỉnh được đổi thành Thanh Hóa cho đến nay. Thanh Hóa có nhiều danh lam thắng cảnh và lịch sử nổi tiếng như Vườn quốc gia Bến En, suối cá thần Cẩm Lương, bãi biển Sầm Sơn, khu di tích Lam Kinh
"Nhớ khi giặc đến giặc lùng. Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây. Núi giăng thành lũy sắt dày. Rừng che bộ đội rừng vây quân thù. Mênh mông bốn mặt sương mù. Ðất trời ta cả chiến khu một lòng. Ai về ai có nhớ không? Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng. Nhớ sông Lô
Thì ra khi bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết sẹo làm thay đổi vẻ mặt của cha là do giặc Pháp bắn bị thương. Sự nghi ngờ đã được giải toả và bé Thu ân hận, hối tiếc về cung cách cư xử lạnh nhạt của mình đối với cha: Nghe bà kể, nó nằm
Dưới ngòi bút thi nhân, bài thơ vừa tuân thủ niêm luật chặt chẽ lại vừa bay bổng tự do, tạo nên vẻ đẹp đa dạng giống như vẻ đẹp của viên ngọc được soi rọi từ nhiều phía khác nhau. Bài Thu hứng không nằm ngoài đặc điểm trên (Ghi lại bài thơ). Xét theo nội dung
Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung. Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành luỹ sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù Mênh mông bốn mặt sương mù Ðất trời ta cả chiến khu một lòng. Ai về ai có nhớ không? Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Vay Tiền Nhanh Chỉ Cần Cmnd. Văn mẫu phân tích Mở bài Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam và là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Thơ ông có sự hòa quyện mềm mại giữa yếu tố chính trị và yếu tố thơ ca, vì vậy tác phậm vừa đậm chất trữ tình lãng mạn, vừa có yếu tố chính trị. Những tác phẩm của ông chủ yếu viết về cách mạng, con người cách mạng. Trong đó, tác phẩm Việt Bắc tiêu biểu cho thơ của Tố Hữu, được sáng tác trong hoàn cảnh cơ quan của Đảng chuyển từ Việt Bắc về Hà Nội. Trong đoạn trích “Nhớ khi giặc đến giặc lùng… Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng” là khúc ca ân nghĩa qua khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc được tác giả hồi tưởng đầy xúc động và ân tình. Thân bài Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù Cả khổ thơ tái hiện hoàn cảnh chiến tranh vô cùng căng thẳng và đày khó khăn. Nhớ khi giặc đến giặc lùng – một cảm xúc bao trùm đoạn thơ là nỗi nhớ. Khác với những đoạn trước, nỗi nhớ tràn ngập yêu thương da diết và đều là những cảm xúc hạnh phúc, bình yên. Thì trong câu thơ này, nỗi nhớ mang âm điệu sôi sục của này kháng chiến. Thời gian chiến đấu khắc nghiệt, hình dung ra cảnh giặc lùng từng chiến sĩ, căng thẳng vô cùng. Có như vậy mới biết các chiến sĩ cách mạng gan dạ và phải chiến đấu anh dũng thế nào để thoát khỏi họng súng của kẻ thù. Điều đáng nói, khi giặc đến lùng thì từ con người đến thiên nhiên đều trở thành “thần hộ vệ” cho các chiến sĩ. Cả rừng cây, núi đá đều cùng các chiến sĩ cách mạng đánh giặc, núi thì giăng thành lũy sắt dày, rừng thì che cho bộ đội ẩn mình để chống giặc. So với những đoạn thơ trước, đoạn thơ đã tạo nên một âm điệu sử thi hào hùng. Cả quân và dân và thiên nhiên núi rừng như hòa vào với nhau, tạo nên một khối sức mạnh vô cùng vững chãi, đồng lòng đánh quân xâm lược. Thiên nhiên núi rừng Tây Bắc không hề vô tri vô giác mà vô cùng sống động, thể hiện sự gắn bó, đồng lòng, đoàn kết cùng con người Việt Bắc bảo vệ các chiến sĩ cách mạng, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp giải phóng đất nước. Mênh mông bốn mặt sương mù Đất trời ta cả chiến khu một lòng Xem thêm Viết Về Kỳ Nghỉ Bằng Tiếng Anh Có Dịch ❤18 Đoạn Văn Hay Cả câu thơ mở ra một không gian vô cùng lớn, bốn mặt sương mù, sương giăng khắp nơi khiến cho khung cảnh mờ ảo và vô cùng hiểm nguy. Khung cảnh có phần uy linh nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Hình ảnh “Mênh mông bốn mặt sương mù” cũng thể hiện sự phát triển của kháng chiến, chiến khu giải phóng ngày càng rộn lớn hơn. Đặc biệt, không chỉ thiên nhiên núi rừng mà ngay cả đất trời cũng đều là của ta, đều một lòng chống giặc. Hàm ý câu thơ thứ hai chính là khẳng định chủ quyền của vùng giải phóng. Sông núi này là của chúng ta, đất trời này là của chúng ta và thực dân Pháp đang xâm phạm chủ quyền cần phải đánh đổi. Cả hai câu thơ cũng thể hiện sự đoàn kết, cùng hướng về đất nước của dân Việt Bắc nói riêng và dân ta nói chung trong cuộc kháng chiến trường kì này. Ai về ai có nhớ không ? Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà. Trong đoạn thơ này tác giả sử dụng câu hỏi tu từ, hỏi mà như không hỏi. Đọc qua thôi chúng ta cũng cảm nhận nỗi nhớ của người đi và kẻ ở. Các chiến sĩ cách mạng về xuôi không nguôi nhớ những người dân Việt Bắc đã bao bọc, cưu mang, che chở trong những năm gian khó. Và ngược lại, những con người Việt Bắc cũng không thể quên những người chiến sĩ cộng sản gan dạ, dám hi sinh vì tổ quốc. Sau câu hỏi tu từ là đại từ “Ta”, một đại từ thể hiện sự rộng lớn, đại diện cho một thế hệ, và khẳng định nỗi nhớ của Ta – những người chiến sĩ về xuôi dành cho đồng bào Việt Bắc là lớn lao, là cụ thể. Nhớ từ Phủ Thông đến đèo Giàng, từ sông Lo đến Phố Ràng, từ Cao lạng sang Nhị Hà. Nỗi nhớ trải dài khắp miền Việt Bắc, cho thấy một tình cảm thâm sâu và in đậm trong trí nhớ. Đây cũng là những địa danh ghi lại những chiến công hào hùng của dân tộc. Đó là sự kiện Phủ Thông – Đèo Giàng – nơi diễn ra các trận hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Sông lô – phố Ràng nơi đánh tàu chiếm Pháp trong chiến dịch Việt Bắc và trận đánh đồn Phố Ràng. Riêng địa danh Cao Bằng, lạng sơn thì ta mở chiến dịch giải phóng biên giới Việt trung. Như vậy, trong nỗi nhớ còn chứa đựng niềm tự hào về những chiến công hào hùng, càng khẳng định vai trò của con người quan trọng biết nhường nào. Điệp từ nhớ nghe nhẹ nhàng mà sâu lắng, lúc trầm, lúc bổng, lúc mãnh liệt, và trong khổ thơ này đây nỗi nhớ là sự biết ơn đến những người đã hi sinh trong các trận chiến và sự tự hào về Việt Bắc – cái nôi cách mạng đã nuôi dưỡng những con người lý tưởng của Đảng. Những đường Việt Bắc của ta Xem thêm 5 đoạn văn mẫu miêu tả mùa hè bằng tiếng Anh – Thành Tây êm đêm rầm rập như là đất rung Sang khổ thơ tiếp tác giả đã mở rộng thêm không gian của Việt Bắc. Việt Bắc trở thành con đường cách mạng lí tượng, rộng thêm, dài thêm, và đêm đêm râm rập tiếng hành quân. Hai câu thơ cho thấy khí thế hào hùng làm rung chuyển đất trời, càng khẳng định sức mạnh của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến, đã sẵn sàng bước vào trận chiến. Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Nghìn đêm thăm thẳm sương dày èn pha bật sáng như ngày mai lên. Qua khổ thơ chúng ta cảm nhận được một đội quân hùng dũng, đang bước đi thật đều với một tâm thế sẵn sàng bước vào chiến trận. Từ láy “điệp điệp trùng trùng” cho thấy những đoàn quan nối tiếp nhau tạo thành những đợt sóng trào kéo dài vô tận. Đặc biệt hình ảnh “ánh sao đầu súng” một hình ảnh gợi nhiều liên tưởng. Trong gian khó vẫn có sự lãng mạn, sự lạc quan ,tin tưởng vào tự do, vào tương lai. Hình ảnh này khiến chúng ta liên tưởng đến câu thơ “Trăng treo đầu súng” trong bài thơ đồng chí. Thiên nhiên đã đồng hành cùng chiến sĩ, ánh sao chính là lý tưởng soi sáng, mang đến tinh thần lạc quan, tràn đầy khí thế. Tiếp sang câu thơ sau chúng ta thấy được hình dân quân với những ngọn đuốc sáng bừng, soi đường, tiếp lương, tải đạn với đầy đủ già trẻ trai gái… Họ bước đi hiên ngang không sợ hãi, không chùn bước, hình tượng bước chân nát đá cho thấy sự dũng mãnh, khẩn trương, không nề hà gian khổ. Có thể nói đội dân quân hùng hậu cũng góp phần rất lớn vào sự đấu tranh giành độc lập của dân tộc. Xem thêm Văn mẫu lớp 8 Tập 2 Phân tích bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ Cả khổ thơ là sự hào hùng, khí thế, mạnh mẽ của quân và dân ta, vượt qua mọi khó khăn chông gai, sẵn sàng chiến đấu chống giặc. Tiếp sang hình ảnh của đoàn ô tô quân sự, xe kéo pháo, chở súng đạn, thuốc men lương thực rùng rùng ra trận. Trong đêm tối, ánh đèn pha chiếu sáng không chỉ xuyên thủng màn đêm mà còn soi sáng tư tưởng xuyên qua những đêm dài tăm tối. Câu thơ “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” cính là ngụ ý nói đến những khó khăn vất vả thiếu thốn trong hiện tại và quá khứ và giờ đây được ánh sáng của Đảng chiếu sáng, xóa đi những đêm tăm tối, thoát khỏi kiếp vùng lầy nô lệ. Với nhịp điệu thơ dồn dập, mạnh mẽ, gấp gáp hào hùng sôi động và đoạn thơ tràn ngập ánh sáng của đèn xe, của ngôi sao, của đuốc đặc biệt là ánh sáng của niềm tin. Tất cả tạo nên một khúc hùng ca chiến thắng. Tin vui chiến thắng trăm miền Hoà Bình, Tây Bắc, iện Biên vui về Vui từ ồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. Trong đoạn thơ này tác giả thể hiện một trạng thái vui mừng tả xiết, tự hào khi tin vui chiến thắng đổ dồn dập từ mọi miền đất nước từ miền núi đến đồng bằng, từ bắc tới nam. Niềm vui khó tả xiết, đọc câu thơ người đọc cũng vui lây với tác giả và những con người thời ấy. Nhịp điệu thơ dồn dập, vui tươi cho thấy tốc độ thần kì, nhanh chóng của chiến thắng. Giọng thơ say mê, náo nực ngập tràn vui sướng. Đây là niềm vui sướng của hàng triệu con người từ Bắc tới Nam. Kết bài Đoạn thơ đã nói lên nỗi lòng của tác giả đằng sau nỗi nhớ ấy là những tâm tư tình cảm của nhà thơ dành cho đồng bào Việt Bắc. Đặc biệt, đoạn thơ là sự kết hợp khéo léo hài hòa của chất trữ tình và chính trị, biểu hiện rõ trong nỗi nhớ người ra đi và thể hiện qua sự vận động từ nội dung đến nghệ thuật. Một lần nữa khẳng định, đoạn trích trên chính là khúc ca ân nghĩa, hùng tráng của Việt Bắc trong kháng chiến. Khúc ca ấy qua hồi tưởng của tố Hữu không chỉ hào hùng mà còn rất đậm tình nghĩa, ân tình. Chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước, nhưng nhìn lại vẫn thấy vô cùng biết ơn những con người Việt Bắc đã cưu mang, nhờ có họ, nhờ có mảnh đất này mà dân quân ta mới có thể dành chiến thắng trước kẻ thù.
Đề bài. Em hãy phân tích đoạn thơ sau Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù Mênh mông bốn mặt sương mù ất trời ta cả chiến khu một lòng. Ai về ai có nhớ không? Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà… Những đường Việt Bắc của ta êm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Nghìn đêm thăm thẳm sương dày èn pha bật sáng như ngày mai lên. Tin vui chiến thắng trăm miền Hoà Bình, Tây Bắc, iện Biên vui về Vui từ ồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. “Trích Việt Bắc của Tố Hữu”. Dàn ý phân tích đoạn thơ Nhớ khi giặc đến giặc lùng Mở bài *Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm + Là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam + Là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc + Phong cách sáng tác lãng mạn, đậm chất trữ tình chính trị – Bài thơ Việt Bắc là một trong những bài thơ được xếp vào hạng những bài thơ “tống biệt” của Tố Hữu, ra đời trong cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến vào tháng 10/1954. – Dẫn dắt tới đoạn trích thơ “Nhớ khi giặc đến giặc lùng …. Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng” là khúc ca ân nghĩa qua khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong kháng chiến dưới hồi tưởng đầy xúc động và ân tình của Tố Hữu. Thân bài * Bức tranh rộng lớn hào hùng của những ngày kháng chiến. 1, Tái hiện một cách cụ thể hoàn cảnh căng thẳng đầy khó khăn Nhớ khi giặc đến giặc lùng – Cảm xúc bao trùm của đoạn thơ là nỗi nhớ. Nhưng khác với đoạn trước, nỗi nhớ trong đoạn thơ này như mang cả âm điệu sục sôi của ngày kháng chiến. Đó là nhớ khi “giặc đến giặc lùng”. Ý thơ như đã mở ra một không khí đầy cam go, căng thẳng, khi giặc tìm mọi cách để truy sát, để hòng dập tắt phong trào cách mạng, phong trào kháng chiến của đồng bào Việt Bắc. 2, Cụ thể hóa vai trò của thiên nhiên và con người Việt Bắc trong những ngày kháng chiến Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù – Trong bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu đã nhiều lần nhắc đến đại từ “ta”. Nhưng so với đoạn thơ trước, đại từ “ta” thường xuất hiện cùng đại từ “mình” để tạo nên một âm điệu trữ tình ngọt ngào. Ở câu thơ này, đại từ “ta” xuất hiện nhưng mang nghĩa bao hàm là chúng ta, là dân tộc, là đất nước. Vì thế nó mang âm điệu sử thi hào hùng. Không chỉ dừng lại ở đó, nhà thơ còn sử dụng biện pháp nhân hóa đã khiến cho thiên nhiên núi rừng như hòa cùng với lòng người để tạo nên một khối sức mạnh đánh đuổi quân xâm lược. Nhờ thế mà rừng cây không còn là hình tượng thiên nhiên vô tri mà nó hiện lên vô cùng sống động, nó thể hiện tình cảm gắn bó, sự đoàn kết đồng lòng của những con người Việt Bắc với thiên nhiên. – Sang câu thơ thứ hai “Núi giăng thành lũy sắt dày”. Cũng giống như rừng cây ở câu thơ trên, núi non không chỉ là biểu tượng cho sự hùng vĩ đại ngàn mà còn mang sức mạnh để bảo vệ đất nước. Núi đã trở thành một tấm lá chắn vững chắc tựa như sắt như đồng để không có kẻ thù nào có thể vượt qua. Đọng lại trong lòng người đọc là câu thơ “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Một lần nữa, Tố Hữu lại sử dụng hình ảnh nhân hóa kết hợp với cách ngắt nhịp 4/4 làm cho câu thơ chia làm hai vế cân xứng đã tái hiện hai nhiệm vụ rất rõ ràng của rừng cây, núi đá. Rừng có khi hiểm trở, có khi dịu dàng để che chở bao bọc cho những người kháng chiến. Có khi rừng lại mạnh mẽ như một thứ vũ khí sắc nhọn để tiêu diệt kẻ thù bảo vệ đất nước. => Tố Hữu thực sự đã thổi hồn vào thiên nhiên Việt Bắc khiến cho mỗi cánh rừng, ngọn núi trở thành người đồng hành với người kháng chiến trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Sức mạnh thiên nhiên hòa quyện với sức mạnh con người đã tạo thành sức mạnh của cả dân tộc, cả thời đại. 3, Chiến khu Việt Bắc với thiên nhiên khắc nghiệt, vừa hùng tráng vừa thơ mộng ở cặp lục bát tiếp theo là hình ảnh thiên nhiên, đất trời Việt Bắc trong giai đoạn kháng chiến. Mênh mông bốn mặt sương mù Đất trời ta cả chiến khu một lòng – Trời đất bị chìm lấp trong cả màn sương giăng khắp nơi, khiên cho khung cảnh chiến đấu trở nên uy linh và không kém phần lãng mạn. Những dù giữa một biển sương mù khó khăn, con người vẫn không mất đi vẻ đẹp lãng mạn của lòng mình. + Với hình ảnh chọn lọc “mênh mông bốn mặt sương mù”, chiến khu mang nét đặc trưng rộng lớn, đồng thời thể hiện sự phát triển của kháng chiến, chiến khu giải phóng được mở rộng hơn. + Cùng với cụm từ “Đất trời ta cả” khẳng định quyền làm chủ vùng giải phóng, và sự tương phản “Mênh mông bốn mặt” và “chiến khu một lòng” Cả vũ trụ, núi rừng Việt Bắc giờ đây đang cùng nhìn về một hướng, đang hướng về cuộc chiến đấu, hướng về sứ mệnh bảo vệ quê hương đất nước yêu dấu của mình thầm thể hiện tinh thần đoàn kết của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Pháp. 4, Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc đã làm nên những chiến công vang dội, hàng loạt những địa danh vang lên, mỗi nơi đều gắn với một thắng lợi vinh quang. Ai về ai có nhớ không ? Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà. – Bằng câu hỏi tu từ, hỏi nhưng không cần trả lời, thể hiện niềm vui to lớn trước chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Sau đó là câu trả lời “Ta về ta nhớ” vừa là câu trả lời, đồng thời cũng là câu nói khẳng định ẩn chứa biết bao niềm tự hào không nhỏ. – Bằng phép liệt kê các địa danh ở Việt Bắc gắn liền với những sự kiện quan trọng như Phủ Thông, đèo Giàng, là nơi đã diễn ra các trận hồi đầu cuộc kháng chiến chống pháp. Sông Lô phố Ràng Trận sông Lô đánh tàu chiếm Pháp trong chiến dịch Việt Bắc và trận đánh đồn phố Ràng. Cao – Lạng Cao Bằng và Lạng Sơn, năm 1950 ta mở chiến dịch giải phóng biên giới Việt – Trung. + Đó là những chiến công tiêu biểu góp phần quan trọng, mang tính quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến. Những bước đầu quan trọng ấy đã làm thay đổi cục diện chiến trường, tạo thế và lực cho cuộc kháng chiến, củng cố niềm tin vào thắng lợi cuối cùng. – Cùng với điệp từ “nhớ” nhớ đến những trận đánh, những chiến công oanh tạc như thế là niềm tự hào của cá nhân những người tham gia kháng chiến. Chiến thắng nào mà chẳng phải trả giá. Có lẽ họ không những nhớ đến những chiến công oanh liệt như thế mà còn nhớ về những kỉ niệm buồn bên đồng đội của mình, họ đã phải chia tay ra đi vĩnh viễn trong nước mắt và sự xót thương của cả dân tộc. => Qua đó nhà thơ như cũng muốn thắp lên nén tâm hương để tưởng nhớ những người đã ngã xuống vì nghĩa lớn vì sự nghiệp của dân tộc, của đất nước. Với điệp từ “nhớ”cùng với thể thơ lục bát âm điệu nhẹ nhàng, ngọt ngào, sâu lắng, diễn tả nỗi nhớ vơi đầy dào dạt trong kí ức của nhà thơ. Giọng thơ thay đổi linh hoạt, lúc trầm lắng, lúc mạnh mẽ mãnh liệt trong niềm vui, khiến đọc giả như đang hòa mình vào niềm vui lớn của dân tộc, niềm vui trọn vẹn khi đất nước hoàn toàn tự do. => Tóm lại, bằng nhiều biện pháp nghệ thuật, qua nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi đã mang lại cho đọc giả không khí nóng hổi từ những cuộc kháng chiến đỉnh điểm của dân tộc ta trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Đoạn thơ cũng khắc họa được hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc trù phú, giữ dội nhưng cũng rất lãng mạn và “bao la” khắc họa được hình ảnh người cán bộ về xuôi có tình cảm sâu nặng gắn bó với thiên nhiên, với cách mạng. Đồng thời thể hiện niềm tin vào chiến thắng cuối cùng của quân và dân ta và khẳng định một điều Việt Bắc chính là cái nôi, nuôi dưỡng cách mạng. 5. Khí thế dũng mãnh của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Việt Nam – 2 câu đầu Mở ra một cảnh tượng sôi động của Việt Bắc trong những đêm hành quân vào chiến dịch Những đường Việt Bắc của ta êm đêm rầm rập như là đất rung + “Những đường Việt Bắc” không gian vô cùng rộng lớn. + Điệp từ “đêm đêm” thời gian liên tục tiếp nối. + So sánh “như là đất nung” + từ láy “rầm rập” Khí thế hào hùng làm rung đất chuyển trời. + Sự lớn mạnh của quân đội ta về lực lượng, khí thế. – 6 câu tiếp Sự phối hợp các lực lượng chiến đấu Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Nghìn đêm thăm thẳm sương dày èn pha bật sáng như ngày mai lên. + Đoàn quân Từ láy “điệp điệp trùng trùng” những đoàn quân tiếp nhau bước đi như những đợt sóng trào kéo dài vô tận. Hình ảnh “ánh sao đầu súng” là một tứ thơ đẹp gợi nhiều liên tưởng Nghệ thuật nhân hóa ánh sao theo chân đoàn quân, treo lơ lửng trên đầu súng, soi sáng khắp các ngả đường hành quân – thiên nhiên đã thành người bạn đồng hành cùng chiến sĩ. Ẩn dụ ánh sao – lí tưởng cách mạng luôn soi sáng dẫn đường, đến tương lai tươi sáng – niềm tin tưởng lạc quan đầy khí thế. + Đoàn dân công Những bó đuốc đỏ rực soi đường, làm sáng bừng lên hình ảnh những đoàn quân dân công tiếp lương, tải đạn với đủ cả già, trẻ, gái, trai… họ đến từ những miền quê với đủ mọi phương tiện chuyên chở xe đạp thồ, gùi, cáng… quyết tâm kiên cường vượt qua khó khăn nguy hiểm để bảo đảm vũ khí, thuốc men, lương thực… cho tiến tuyến. Cách nói cường điệu “bước… bay” vừa diễn tả lực lượng đông đảo vừa diễn tả một sức mạnh hùng hậu phục vụ chiến trường. Cuộc chiến đấu của ta là đấu tranh nhân dân, đã phát huy sức mạnh toàn dân. Hình ảnh thơ thật đẹp “muôn tàn lửa bay”, “đỏ đuốc” xua tan những lạnh lẽo, tăm tối nơi rừng núi. Từ láy “điệp điệp”, “trùng trùng” + từ “nát đá” góp phần tạo nên âm điệu hùng tráng mạnh mẽ. + Đoàn ô tô quân sự Xe kéo pháo, chở súng đạn, thuốc men, lương thực, chở quân rùng rùng ra trận Hình ảnh “đèn pha bật sáng”, “ánh sáng rực rỡ xuyên thủng đêm dài tăm tối”. Hình ảnh ẩn dụ “nghìn đêm” – quá khứ nô lệ; “sương dày” những khó khăn vất vả, thiếu thốn trong hiện tại. So sánh “Như ngày mai lên”, “niềm tin tưởng, lạc quan hình ảnh thơ mang ý nghĩa biểu trưng cho tương lai tươi sáng của đất nước. Nhịp điệu dồn dập, mạnh mẽ, gấp gáp. m hưởng hào hùng, sôi nổi náo nức; hình ảnh thơ hoành tráng, mỹ lệ. Đoạn thơ tràn ngập ánh sáng ánh sao, ánh đuốc, ánh đèn pha…, ánh sáng của niềm tin tưởng, niềm vui tràn ngập. Tất cả tạo thành khúc hùng ca chiến thắng. Việt Bắc không còn là của mình hay là của riêng ta mà là của ta – của chúng ta, của tất cả mọi người Việt Nam kháng chiến. 6. Niềm vui khi tin chiến thắng của mọi miền đất nước tiếp nối báo về Tin vui chiến thắng trăm miền Hoà Bình, Tây Bắc, iện Biên vui về Vui từ ồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. Điệp từ ”vui” như tiếng reo mừng chiến thắng, cảm xúc náo nức, vui sướng, tự hào khi tin vui chiến thắng dồn dập đổ về từ khắp mọi miền đất nước. Liệt kê những địa danh kết hợp từ “trăm miền” mở ra không gian rộng lớn của chiến thắng từ miền núi đến đồng bằng, từ bắc tới nam. Nhịp điệu thơ dồn dập, tươi vui, náo nức cho thấy tốc độ thần kỳ, nhanh chóng của những chiến thắng. Những từ “vui về”, “vui lên”, vui từ” đã đặt Việt Bắc làm tâm điểm của mọi niềm vui. Giọng thơ say mê, náo nức tràn ngập niềm vui sướng trong lòng hàng triệu con người từ bắc chí nam. Kết bài – Nhận xét về chất trữ tình chính trị + Đoạn thơ đã nói lên nỗi nhớ của tác giả Tố Hữu. Đằng sau nỗi nhớ ấy chính là những tâm tư, tình cảm của Tố Hữu. + Chất trữ tình chính trị đã được biểu hiện rõ nét trong nỗi nhớ của người ra đi ấy. Hơn thế nữa, nó còn được thể hiện qua sự vận động từ nội dung đến nghệ thuật của đoạn thơ. + Chất trữ tình chính trị chính là phong cách tiêu biểu của hồn thơ Tố Hữu. – Khẳng định giá trị đoạn trích thơ đem lại là khúc ca ân nghĩa qua khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong kháng chiến dưới hồi tưởng đầy xúc động và ân tình của Tố Hữu về chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước, từ đó mà hướng về tương lai tươi sáng, nhắc nhớ tâm nguyện thuỷ chung. Hay Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Nam. Văn mẫu tham khảo phân tích đoạn thơ Nhớ khi giặc đến giặc lùng Nguồn sưu tầm Trong gian khổ, khó khăn, ý chí quật cường và tính thần đoàn kết của dân tộc ta càng được nhân lên gấp bội. Cũng chính nhờ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, nhân dân ta đã đánh tan những thế lực ngoại xâm hùng mạnh nhất. Cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp của cả dân tộc đã khép lại song lớp lớp thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau vẫn luôn được nhắc nhớ về quá khứ hào hùng của cha ông. Theo dòng hồi tưởng của nhà thơ Tố Hữu trong bài Việt Bắc, bạn đọc lại một lần nữa cảm nhận về cuộc kháng chiến của dân tộc ta với sức mạnh vô song của khối đại đoàn kết của tình quân dân để tạo nên những chiến công lẫy lừng. Tình đoàn kết và sức mạnh của nhân dân ta được thể hiện rất đậm nét trong đoạn thơ Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây ….. Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. Trong mạch hồi tưởng của tác giả, những kỉ niệm thời kháng chiến cứ dần dần hiện lên trong tâm trí nhà thơ trong đó có nỗi nhớ về những ngày tháng cách mạng còn trong trứng nước, về con người Việt Bắc ân tình, thủy chung và cả những nỗi nhớ về những trận đánh Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Làm sao quên được cái cảnh càn quét, săn lùng của kẻ thù như một bầy chó săn khát máu. Đã bao lần chúng tắm nhân dân ta trong những bể máu, trong tiếng kêu khóc đau thương dậy cả đất trời. Quân giặc tìm mọi cách đàn áp, khủng bố hòng làm nhụt chí vùng lên tự giải phóng của nhân dân ta. Không chỉ trong thơ Tố Hữu mà trong tác phẩm của những nhà thơ khác, bao tiếng thơ ai oán, căm hờn đã nêu bật tội ác quân xâm lược Quê hương ta từ ngày khủng khiếp Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn Ruộng ta khô Nhà ta cháy Chó ngộ một đàn Lưỡi dài lê sắc máu Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang. Hoàng Cầm – Bên kia sông Đuống Những âm mưu nham hiểm và dã tâm của kẻ thù không thể cản trở tấm lòng yêu quê hương đất nước của nhân dân ta. Trong giờ khắc quyết định số phận của mình, quân dân ta đã vùng lên. Không chỉ con người mà cả rừng núi cũng chung sức đánh Tây. Thiên nhiên đất trời Việt Bắc đã trở thành những người đồng đội, những chiến sĩ anh hùng trong cuộc chiến Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù. Những dãy núi trùng điệp dàn trải như thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm che chở bộ đội, dân quân, du kích,… Núi rừng vừa bao vây quân thù, vừa chở che bộ đội. Núi rừng vốn là những vật vô tri, song dưới con mắt của nhà thơ, trong cuộc kháng chiến trường kì toàn dân, toàn diện, núi rừng thiên nhiên cũng trở nên có ý chí, có tình người. Chúng cùng quân dân ta tham gia chiến đấu. Tư thế hiên ngang kiêu hùng của những vách núi làm cho kẻ thù bất lực. Cái dáng ngay thẳng của tre nứa đầy dũng khí đâm thẳng lên trời xanh như thách thức kẻ thù. Với nghệ thuật nhân hóa, Tố Hữu đã biên núi rừng, thiên nhiên thành những người lính anh dũng kiên cường Mênh mông bốn mặt sương mù ất trời ta cả chiến khu một lòng. Khung cảnh chiến đấu vừa hào hùng vừa thơ mộng, đất trời bao la chìm trong sương mù dày đặc. Màn sương ấy như che chở cho quân ta và cản bước quân thù. Cả núi rừng Việt Bắc giờ đây đang cùng chung một nhịp đập trái tim. Tất cả đang hướng về cuộc chiến đấu , hướng về sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quê hương yêu dấu. Cụm từ “cả chiến khu một lòng” đã nhấn mạnh tình đoàn kết quân dân, sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên. Tất cả bừng lên ngọn lửa căm hờn, ngọn lửa hừng hực tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Qua câu thơ này, Tố Hữu thể hiện lòng tự hào trước sức mạnh của dân tộc ta. Khi Tổ quốc, quê hương cần, tất cả thiên nhiên và con người đều sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hi sinh. Sáu câu thơ đã phần nào thể hiện lòng yêu mến, tự hào và cảm phục của nhà thơ trước mảnh đất và con người Việt Bắc nói riêng cũng nhân dân Việt Nam nói chung. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân cùng ý chí quyết chiến quyết thắng đã tạo nên sức mạnh của nhân dân ta, làm nên những chiến công anh hùng. Hàng loạt những địa danh được nhắc tới. Mỗi nơi đều gắn với một thắng lợi vinh quang. Đây Phủ Thông, kia đèo Giàng, rồi những trận thủy chiến trên sông Lô… Cuộc kháng chiến đã nổ ra khắp mọi nơi. Những chiến thắng đó không những trải dài theo chiều rộng không gian mà còn trải cả trong chiều dài nỗi nhớ. Nhà thơ đặt câu hỏi, nói đúng hơn là người ở lại hỏi người ra đi “Ai về ai có nhớ không?”. Người ra đi làm sao mà quên được những trận đánh, những chiến công ấy bởi trong những vinh quang đó có máu của đồng đội, bạn bè. Nhớ về những chiến công cũng là tường nhớ về những người anh hùng đã ngã xuống để hôm nay, đồng đội, bạn bè và con cháu được sống và được tự hào về thắng lợi, về sức mạnh anh hùng của dân tộc. Bằng biện pháp liệt kê, nhà thơ đã nhắc lại những chiến công hào hùng của quân và dân ta. Thật tự hào và đáng trân trọng xiết bao. Từ những chiến công, trong nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại, những đêm hành quân thật hùng dũng đã hiện về Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Cả núi rừng, đất trời vang dậy bước hành quân. Thiên nhiên chuyên mình cũng chính là lúc nhân dân ta chuyển sang giai đoạn phản công của cuộc kháng chiến. Từng đoàn quân nối nhau ra tiền tuyến. Trong trái tim họ, những lời thề vang vọng, mãi thúc giục họ đi lên, chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Tất cả những lo toan bề bộn của cuộc sống hằng ngày đều được dẹp lại sau lưng. Từng dòng chữ trong câu thơ như cũng đang run lên theo nhịp bước quân hành của những đoàn quân ra trận. Những người chiến sĩ anh hùng cứ tiến lên phía trước, tiến đến một ngày mai tươi sáng, vẻ đẹp hùng dũng của đoàn quân được tái hiện rất cụ thể qua phép so sánh Đêm đêm rầm rập như là đất rung Hình tượng người lính trong đêm hành quân gợi nhớ tới câu thơ của Quang Dũng Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm. Tây Tiến Trong bài Tây Tiến, hình ảnh người lính hiện lên hào hùng trong gian khổ. thơ Tố Hữu, những khó khăn gian khổ đã phẩn nào được làm mò để nêu bật chân dung của một đoàn quân dũng mãnh Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan. Từng đoàn binh “điệp điệp, trùng trùng” tiên đi. Trong họ là cả một bầu dũng khí Cảnh tượng đoàn quân đông đảo, trùng điệp như những dãy núi kế tiếp nhau. Miêu tả cảnh hành quân, nhà thơ sử dụng cụm từ “điệp điệp, trùng trùng”. Có lẽ chẳng còn từ ngữ nào có thể diễn tả được sức mạnh của đoàn binh hơn thế. Trong đoàn quân đó có những con người không chi biết cầm súng chiến đấu mà còn có tâm hồn lãng mạn. Họ làm bạn với trăng sao. Trong đêm tối, ánh sao soi đường cho các chiến sĩ, chia sẻ với họ những tâm tư tình cảm. Cảnh thật đẹp và mơ mộng quả, không gian đang sục sôi bỗng như lặng đi trước một cảnh tượng đậm chất lãng mạn. m điệu câu thơ trở nên trầm lắng. Hình ảnh “ánh sao đầu súng” không mới. Chính Hữu đã từng viết Đầu súng trăng treo Song sự chuyển đổi nhịp nhàng giữa hai câu thơ “Quân đi điệp điệp trùng trùng / Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” khiến hình ảnh người lính bỗng đẹp thêm lên. Ở họ có cốt cách của người chiến sĩ và tâm hồn của người thi sĩ. Họ thật đáng cảm phục biết bao. Trong đêm tối hình ảnh đoàn binh hiện lên càng rõ nét. Họ làm chủ đất trời, vũ trụ bao la. Đó là những con người anh hùng của mảnh đất anh hùng. Cùng với bộ đội chủ lực, những đoàn dân công cũng xung phong ra tiền tuyến Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Anh đuốc bập bùng sáng lên trong đêm tối. Đoàn dân công trên con đường ra trận được miêu tả thật hùng dũng, hiên ngang. Họ muốn đem tiếng hát của mình, sức lực của mình góp chung vào sự nghiệp chung của dân tộc. Khắc họa hình tượng những đoàn dân công, tác giả sử dụng hình ảnh “Bước chân nát đá” cho thấy sức mạnh của họ thật phi thường. Muôn tàn lửa bay sau lưng họ như những khó khăn đã bị dẹp lại phía sau. Đoàn binh và những người dân công là hình ảnh tượng trưng cho quân dân Việt Nam. Với sức mạnh phi thường, dân tộc ta đã vượt qua Nghìn đêm thăm thẳm sương dày để đón chào tương lai tươi sáng Đèn pha bật sáng như ngày mai lên. Khó khăn gian khổ như bóng đêm đã khép lại. Trước mắt đoàn quân, ánh đèn pha bật sáng như niềm tín tưởng vào thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến và tương lai tươi sáng của dân tộc. Đoàn quân cứ bước đi trong niềm tin và hi vọng. Toàn bộ tâm trí và dũng khí của họ đều hướng về tương lai. Có thể nói, câu thơ thể hiện niềm lạc quan của nhà thơ và cũng là dự cảm về ngày chiến thắng. Chỉ với một đoạn thơ ngắn, Tố Hữu đã tái hiện được vẻ đẹp anh hùng của nhân dân, núi rừng Việt Bắc nói riêng và sức mạnh anh hùng của dân tộc Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc chính là sức mạnh làm nên chiến thắng. Vì thế, đoạn thơ nói riêng, cả bài Việt Bắc nói chung mang âm hưởng sử thi khá đậm nét. Và đây cũng chính là một nét tiêu biểu của phong cách thơ Tố Hữu vừa giàu chất lí tưởng vừa ngọt ngào tha thiết và thấm đẫm chất dân tộc. Phạm Thúy Hồng Dẫn theo Trần Liên Quang, Đỗ Thị Yên Trên đây là dàn ý và văn mẫu phân tích đoạn thơ Nhớ khi giặc đến giặc lùng …. Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng mà các em có thể tham khảo. Phân tích đoạn thơ Nhớ khi giặc đến giặc lùng .đến Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng với dàn ý và văn mẫu tham khảo giúp em hoàn thành bài dễ dàng. Đăng bởi Chuyên mục Giáo dục Bản quyền bài viết thuộc trường Mọi hành vi sao chép đều là gian lận! Nguồn chia sẻ Trường Tags Ngữ Văn lớp 12 Văn mẫu lớp 12 Văn mẫu lớp 12 Tập 1
Đề bài. Em hãy phân tích đoạn thơ sauNhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù Mênh mông bốn mặt sương mù ất trời ta cả chiến khu một lòng. Ai về ai có nhớ không? Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà… Những đường Việt Bắc của ta êm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Nghìn đêm thăm thẳm sương dày èn pha bật sáng như ngày mai lên. Tin vui chiến thắng trăm miền Hoà Bình, Tây Bắc, iện Biên vui về Vui từ ồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng."Trích Việt Bắc của Tố Hữu".Dàn ý phân tích đoạn thơ Nhớ khi giặc đến giặc lùngMở bài*Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm+ Là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam+ Là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc+ Phong cách sáng tác lãng mạn, đậm chất trữ tình chính trị- Bài thơ Việt Bắc là một trong những bài thơ được xếp vào hạng những bài thơ “tống biệt” của Tố Hữu, ra đời trong cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến vào tháng 10/ Dẫn dắt tới đoạn trích thơ "Nhớ khi giặc đến giặc lùng .... Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng" là khúc ca ân nghĩa qua khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong kháng chiến dưới hồi tưởng đầy xúc động và ân tình của Tố bài* Bức tranh rộng lớn hào hùng của những ngày kháng Tái hiện một cách cụ thể hoàn cảnh căng thẳng đầy khó khănNhớ khi giặc đến giặc lùng- Cảm xúc bao trùm của đoạn thơ là nỗi nhớ. Nhưng khác với đoạn trước, nỗi nhớ trong đoạn thơ này như mang cả âm điệu sục sôi của ngày kháng chiến. Đó là nhớ khi “giặc đến giặc lùng”. Ý thơ như đã mở ra một không khí đầy cam go, căng thẳng, khi giặc tìm mọi cách để truy sát, để hòng dập tắt phong trào cách mạng, phong trào kháng chiến của đồng bào Việt Cụ thể hóa vai trò của thiên nhiên và con người Việt Bắc trong những ngày kháng chiếnRừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù - Trong bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu đã nhiều lần nhắc đến đại từ “ta”. Nhưng so với đoạn thơ trước, đại từ “ta” thường xuất hiện cùng đại từ “mình” để tạo nên một âm điệu trữ tình ngọt ngào. Ở câu thơ này, đại từ “ta” xuất hiện nhưng mang nghĩa bao hàm là chúng ta, là dân tộc, là đất nước. Vì thế nó mang âm điệu sử thi hào hùng. Không chỉ dừng lại ở đó, nhà thơ còn sử dụng biện pháp nhân hóa đã khiến cho thiên nhiên núi rừng như hòa cùng với lòng người để tạo nên một khối sức mạnh đánh đuổi quân xâm lược. Nhờ thế mà rừng cây không còn là hình tượng thiên nhiên vô tri mà nó hiện lên vô cùng sống động, nó thể hiện tình cảm gắn bó, sự đoàn kết đồng lòng của những con người Việt Bắc với thiên Sang câu thơ thứ hai “Núi giăng thành lũy sắt dày”. Cũng giống như rừng cây ở câu thơ trên, núi non không chỉ là biểu tượng cho sự hùng vĩ đại ngàn mà còn mang sức mạnh để bảo vệ đất nước. Núi đã trở thành một tấm lá chắn vững chắc tựa như sắt như đồng để không có kẻ thù nào có thể vượt qua. Đọng lại trong lòng người đọc là câu thơ “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Một lần nữa, Tố Hữu lại sử dụng hình ảnh nhân hóa kết hợp với cách ngắt nhịp 4/4 làm cho câu thơ chia làm hai vế cân xứng đã tái hiện hai nhiệm vụ rất rõ ràng của rừng cây, núi đá. Rừng có khi hiểm trở, có khi dịu dàng để che chở bao bọc cho những người kháng chiến. Có khi rừng lại mạnh mẽ như một thứ vũ khí sắc nhọn để tiêu diệt kẻ thù bảo vệ đất nước.=> Tố Hữu thực sự đã thổi hồn vào thiên nhiên Việt Bắc khiến cho mỗi cánh rừng, ngọn núi trở thành người đồng hành với người kháng chiến trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Sức mạnh thiên nhiên hòa quyện với sức mạnh con người đã tạo thành sức mạnh của cả dân tộc, cả thời Chiến khu Việt Bắc với thiên nhiên khắc nghiệt, vừa hùng tráng vừa thơ mộng ở cặp lục bát tiếp theo là hình ảnh thiên nhiên, đất trời Việt Bắc trong giai đoạn kháng mông bốn mặt sương mùĐất trời ta cả chiến khu một lòng- Trời đất bị chìm lấp trong cả màn sương giăng khắp nơi, khiên cho khung cảnh chiến đấu trở nên uy linh và không kém phần lãng mạn. Những dù giữa một biển sương mù khó khăn, con người vẫn không mất đi vẻ đẹp lãng mạn của lòng mình.+ Với hình ảnh chọn lọc “mênh mông bốn mặt sương mù”, chiến khu mang nét đặc trưng rộng lớn, đồng thời thể hiện sự phát triển của kháng chiến, chiến khu giải phóng được mở rộng hơn.+ Cùng với cụm từ “Đất trời ta cả” khẳng định quyền làm chủ vùng giải phóng, và sự tương phản “Mênh mông bốn mặt” và “chiến khu một lòng” Cả vũ trụ, núi rừng Việt Bắc giờ đây đang cùng nhìn về một hướng, đang hướng về cuộc chiến đấu, hướng về sứ mệnh bảo vệ quê hương đất nước yêu dấu của mình thầm thể hiện tinh thần đoàn kết của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc đã làm nên những chiến công vang dội, hàng loạt những địa danh vang lên, mỗi nơi đều gắn với một thắng lợi vinh về ai có nhớ không ?Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo GiàngNhớ sông Lô, nhớ Phố RàngNhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Bằng câu hỏi tu từ, hỏi nhưng không cần trả lời, thể hiện niềm vui to lớn trước chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Sau đó là câu trả lời “Ta về ta nhớ” vừa là câu trả lời, đồng thời cũng là câu nói khẳng định ẩn chứa biết bao niềm tự hào không Bằng phép liệt kê các địa danh ở Việt Bắc gắn liền với những sự kiện quan trọng như Phủ Thông, đèo Giàng, là nơi đã diễn ra các trận hồi đầu cuộc kháng chiến chống pháp. Sông Lô phố Ràng Trận sông Lô đánh tàu chiếm Pháp trong chiến dịch Việt Bắc và trận đánh đồn phố Ràng. Cao – Lạng Cao Bằng và Lạng Sơn, năm 1950 ta mở chiến dịch giải phóng biên giới Việt – Trung.+ Đó là những chiến công tiêu biểu góp phần quan trọng, mang tính quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến. Những bước đầu quan trọng ấy đã làm thay đổi cục diện chiến trường, tạo thế và lực cho cuộc kháng chiến, củng cố niềm tin vào thắng lợi cuối Cùng với điệp từ “nhớ” nhớ đến những trận đánh, những chiến công oanh tạc như thế là niềm tự hào của cá nhân những người tham gia kháng chiến. Chiến thắng nào mà chẳng phải trả giá. Có lẽ họ không những nhớ đến những chiến công oanh liệt như thế mà còn nhớ về những kỉ niệm buồn bên đồng đội của mình, họ đã phải chia tay ra đi vĩnh viễn trong nước mắt và sự xót thương của cả dân tộc.=> Qua đó nhà thơ như cũng muốn thắp lên nén tâm hương để tưởng nhớ những người đã ngã xuống vì nghĩa lớn vì sự nghiệp của dân tộc, của đất nước. Với điệp từ “nhớ”cùng với thể thơ lục bát âm điệu nhẹ nhàng, ngọt ngào, sâu lắng, diễn tả nỗi nhớ vơi đầy dào dạt trong kí ức của nhà thơ. Giọng thơ thay đổi linh hoạt, lúc trầm lắng, lúc mạnh mẽ mãnh liệt trong niềm vui, khiến đọc giả như đang hòa mình vào niềm vui lớn của dân tộc, niềm vui trọn vẹn khi đất nước hoàn toàn tự do.=> Tóm lại, bằng nhiều biện pháp nghệ thuật, qua nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi đã mang lại cho đọc giả không khí nóng hổi từ những cuộc kháng chiến đỉnh điểm của dân tộc ta trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Đoạn thơ cũng khắc họa được hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc trù phú, giữ dội nhưng cũng rất lãng mạn và “bao la” khắc họa được hình ảnh người cán bộ về xuôi có tình cảm sâu nặng gắn bó với thiên nhiên, với cách mạng. Đồng thời thể hiện niềm tin vào chiến thắng cuối cùng của quân và dân ta và khẳng định một điều Việt Bắc chính là cái nôi, nuôi dưỡng cách Khí thế dũng mãnh của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Việt Nam- 2 câu đầu Mở ra một cảnh tượng sôi động của Việt Bắc trong những đêm hành quân vào chiến dịchNhững đường Việt Bắc của ta êm đêm rầm rập như là đất rung + “Những đường Việt Bắc” không gian vô cùng rộng lớn.+ Điệp từ “đêm đêm” thời gian liên tục tiếp nối.+ So sánh “như là đất nung” + từ láy “rầm rập” Khí thế hào hùng làm rung đất chuyển trời.+ Sự lớn mạnh của quân đội ta về lực lượng, khí 6 câu tiếp Sự phối hợp các lực lượng chiến đấuQuân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Nghìn đêm thăm thẳm sương dày èn pha bật sáng như ngày mai lên. + Đoàn quânTừ láy “điệp điệp trùng trùng” những đoàn quân tiếp nhau bước đi như những đợt sóng trào kéo dài vô ảnh “ánh sao đầu súng” là một tứ thơ đẹp gợi nhiều liên tưởngNghệ thuật nhân hóa ánh sao theo chân đoàn quân, treo lơ lửng trên đầu súng, soi sáng khắp các ngả đường hành quân - thiên nhiên đã thành người bạn đồng hành cùng chiến dụ ánh sao - lí tưởng cách mạng luôn soi sáng dẫn đường, đến tương lai tươi sáng - niềm tin tưởng lạc quan đầy khí thế.+ Đoàn dân côngNhững bó đuốc đỏ rực soi đường, làm sáng bừng lên hình ảnh những đoàn quân dân công tiếp lương, tải đạn với đủ cả già, trẻ, gái, trai… họ đến từ những miền quê với đủ mọi phương tiện chuyên chở xe đạp thồ, gùi, cáng… quyết tâm kiên cường vượt qua khó khăn nguy hiểm để bảo đảm vũ khí, thuốc men, lương thực… cho tiến nói cường điệu “bước… bay” vừa diễn tả lực lượng đông đảo vừa diễn tả một sức mạnh hùng hậu phục vụ chiến trường. Cuộc chiến đấu của ta là đấu tranh nhân dân, đã phát huy sức mạnh toàn ảnh thơ thật đẹp “muôn tàn lửa bay”, “đỏ đuốc” xua tan những lạnh lẽo, tăm tối nơi rừng láy "điệp điệp”, “trùng trùng” + từ “nát đá” góp phần tạo nên âm điệu hùng tráng mạnh mẽ.+ Đoàn ô tô quân sựXe kéo pháo, chở súng đạn, thuốc men, lương thực, chở quân rùng rùng ra trậnHình ảnh “đèn pha bật sáng”, "ánh sáng rực rỡ xuyên thủng đêm dài tăm tối".Hình ảnh ẩn dụ “nghìn đêm” - quá khứ nô lệ; “sương dày” những khó khăn vất vả, thiếu thốn trong hiện sánh “Như ngày mai lên”, “niềm tin tưởng, lạc quan hình ảnh thơ mang ý nghĩa biểu trưng cho tương lai tươi sáng của đất điệu dồn dập, mạnh mẽ, gấp gáp. m hưởng hào hùng, sôi nổi náo nức; hình ảnh thơ hoành tráng, mỹ thơ tràn ngập ánh sáng ánh sao, ánh đuốc, ánh đèn pha…, ánh sáng của niềm tin tưởng, niềm vui tràn ngập. Tất cả tạo thành khúc hùng ca chiến thắng. Việt Bắc không còn là của mình hay là của riêng ta mà là của ta – của chúng ta, của tất cả mọi người Việt Nam kháng Niềm vui khi tin chiến thắng của mọi miền đất nước tiếp nối báo vềTin vui chiến thắng trăm miền Hoà Bình, Tây Bắc, iện Biên vui về Vui từ ồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. Điệp từ ”vui” như tiếng reo mừng chiến thắng, cảm xúc náo nức, vui sướng, tự hào khi tin vui chiến thắng dồn dập đổ về từ khắp mọi miền đất kê những địa danh kết hợp từ “trăm miền” mở ra không gian rộng lớn của chiến thắng từ miền núi đến đồng bằng, từ bắc tới điệu thơ dồn dập, tươi vui, náo nức cho thấy tốc độ thần kỳ, nhanh chóng của những chiến từ “vui về”, “vui lên”, vui từ” đã đặt Việt Bắc làm tâm điểm của mọi niềm thơ say mê, náo nức tràn ngập niềm vui sướng trong lòng hàng triệu con người từ bắc chí bài- Nhận xét về chất trữ tình chính trị+ Đoạn thơ đã nói lên nỗi nhớ của tác giả Tố Hữu. Đằng sau nỗi nhớ ấy chính là những tâm tư, tình cảm của Tố Hữu.+ Chất trữ tình chính trị đã được biểu hiện rõ nét trong nỗi nhớ của người ra đi ấy. Hơn thế nữa, nó còn được thể hiện qua sự vận động từ nội dung đến nghệ thuật của đoạn thơ.+ Chất trữ tình chính trị chính là phong cách tiêu biểu của hồn thơ Tố Khẳng định giá trị đoạn trích thơ đem lại là khúc ca ân nghĩa qua khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong kháng chiến dưới hồi tưởng đầy xúc động và ân tình của Tố Hữu về chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước, từ đó mà hướng về tương lai tươi sáng, nhắc nhớ tâm nguyện thuỷ chung. Hay Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt mẫu tham khảo phân tích đoạn thơ Nhớ khi giặc đến giặc lùngNguồn sưu tầmTrong gian khổ, khó khăn, ý chí quật cường và tính thần đoàn kết của dân tộc ta càng được nhân lên gấp bội. Cũng chính nhờ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, nhân dân ta đã đánh tan những thế lực ngoại xâm hùng mạnh nhất. Cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp của cả dân tộc đã khép lại song lớp lớp thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau vẫn luôn được nhắc nhớ về quá khứ hào hùng của cha ông. Theo dòng hồi tưởng của nhà thơ Tố Hữu trong bài Việt Bắc, bạn đọc lại một lần nữa cảm nhận về cuộc kháng chiến của dân tộc ta với sức mạnh vô song của khối đại đoàn kết của tình quân dân để tạo nên những chiến công lẫy lừng. Tình đoàn kết và sức mạnh của nhân dân ta được thể hiện rất đậm nét trong đoạn thơNhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây …..Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. Trong mạch hồi tưởng của tác giả, những kỉ niệm thời kháng chiến cứ dần dần hiện lên trong tâm trí nhà thơ trong đó có nỗi nhớ về những ngày tháng cách mạng còn trong trứng nước, về con người Việt Bắc ân tình, thủy chung và cả những nỗi nhớ về những trận đánhNhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Làm sao quên được cái cảnh càn quét, săn lùng của kẻ thù như một bầy chó săn khát máu. Đã bao lần chúng tắm nhân dân ta trong những bể máu, trong tiếng kêu khóc đau thương dậy cả đất trời. Quân giặc tìm mọi cách đàn áp, khủng bố hòng làm nhụt chí vùng lên tự giải phóng của nhân dân ta. Không chỉ trong thơ Tố Hữu mà trong tác phẩm của những nhà thơ khác, bao tiếng thơ ai oán, căm hờn đã nêu bật tội ác quân xâm lượcQuê hương ta từ ngày khủng khiếpGiặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tànRuộng ta khôNhà ta cháyChó ngộ một đànLưỡi dài lê sắc máuKiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang.Hoàng Cầm – Bên kia sông ĐuốngNhững âm mưu nham hiểm và dã tâm của kẻ thù không thể cản trở tấm lòng yêu quê hương đất nước của nhân dân ta. Trong giờ khắc quyết định số phận của mình, quân dân ta đã vùng lên. Không chỉ con người mà cả rừng núi cũng chung sức đánh Tây. Thiên nhiên đất trời Việt Bắc đã trở thành những người đồng đội, những chiến sĩ anh hùng trong cuộc chiếnNúi giăng thành lũy sắt dàyRừng che bộ đội, rừng vây quân dãy núi trùng điệp dàn trải như thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm che chở bộ đội, dân quân, du kích,… Núi rừng vừa bao vây quân thù, vừa chở che bộ đội. Núi rừng vốn là những vật vô tri, song dưới con mắt của nhà thơ, trong cuộc kháng chiến trường kì toàn dân, toàn diện, núi rừng thiên nhiên cũng trở nên có ý chí, có tình người. Chúng cùng quân dân ta tham gia chiến đấu. Tư thế hiên ngang kiêu hùng của những vách núi làm cho kẻ thù bất lực. Cái dáng ngay thẳng của tre nứa đầy dũng khí đâm thẳng lên trời xanh như thách thức kẻ thù. Với nghệ thuật nhân hóa, Tố Hữu đã biên núi rừng, thiên nhiên thành những người lính anh dũng kiên cườngMênh mông bốn mặt sương mù ất trời ta cả chiến khu một lòng. Khung cảnh chiến đấu vừa hào hùng vừa thơ mộng, đất trời bao la chìm trong sương mù dày đặc. Màn sương ấy như che chở cho quân ta và cản bước quân thù. Cả núi rừng Việt Bắc giờ đây đang cùng chung một nhịp đập trái tim. Tất cả đang hướng về cuộc chiến đấu , hướng về sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quê hương yêu dấu. Cụm từ “cả chiến khu một lòng” đã nhấn mạnh tình đoàn kết quân dân, sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên. Tất cả bừng lên ngọn lửa căm hờn, ngọn lửa hừng hực tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Qua câu thơ này, Tố Hữu thể hiện lòng tự hào trước sức mạnh của dân tộc ta. Khi Tổ quốc, quê hương cần, tất cả thiên nhiên và con người đều sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hi sinh. Sáu câu thơ đã phần nào thể hiện lòng yêu mến, tự hào và cảm phục của nhà thơ trước mảnh đất và con người Việt Bắc nói riêng cũng nhân dân Việt Nam nói mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân cùng ý chí quyết chiến quyết thắng đã tạo nên sức mạnh của nhân dân ta, làm nên những chiến công anh hùng. Hàng loạt những địa danh được nhắc tới. Mỗi nơi đều gắn với một thắng lợi vinh quang. Đây Phủ Thông, kia đèo Giàng, rồi những trận thủy chiến trên sông Lô… Cuộc kháng chiến đã nổ ra khắp mọi nơi. Những chiến thắng đó không những trải dài theo chiều rộng không gian mà còn trải cả trong chiều dài nỗi nhớ. Nhà thơ đặt câu hỏi, nói đúng hơn là người ở lại hỏi người ra đi “Ai về ai có nhớ không?”. Người ra đi làm sao mà quên được những trận đánh, những chiến công ấy bởi trong những vinh quang đó có máu của đồng đội, bạn bè. Nhớ về những chiến công cũng là tường nhớ về những người anh hùng đã ngã xuống để hôm nay, đồng đội, bạn bè và con cháu được sống và được tự hào về thắng lợi, về sức mạnh anh hùng của dân tộc. Bằng biện pháp liệt kê, nhà thơ đã nhắc lại những chiến công hào hùng của quân và dân ta. Thật tự hào và đáng trân trọng xiết những chiến công, trong nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại, những đêm hành quân thật hùng dũng đã hiện vềNhững đường Việt Bắc của taĐêm đêm rầm rập như là đất rungCả núi rừng, đất trời vang dậy bước hành quân. Thiên nhiên chuyên mình cũng chính là lúc nhân dân ta chuyển sang giai đoạn phản công của cuộc kháng chiến. Từng đoàn quân nối nhau ra tiền tuyến. Trong trái tim họ, những lời thề vang vọng, mãi thúc giục họ đi lên, chiến đấu và chiến thắng kẻ cả những lo toan bề bộn của cuộc sống hằng ngày đều được dẹp lại sau lưng. Từng dòng chữ trong câu thơ như cũng đang run lên theo nhịp bước quân hành của những đoàn quân ra trận. Những người chiến sĩ anh hùng cứ tiến lên phía trước, tiến đến một ngày mai tươi sáng, vẻ đẹp hùng dũng của đoàn quân được tái hiện rất cụ thể qua phép so sánhĐêm đêm rầm rập như là đất rungHình tượng người lính trong đêm hành quân gợi nhớ tới câu thơ của Quang DũngTây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùm.Tây TiếnTrong bài Tây Tiến, hình ảnh người lính hiện lên hào hùng trong gian khổ. thơ Tố Hữu, những khó khăn gian khổ đã phẩn nào được làm mò để nêu bật chân dung của một đoàn quân dũng mãnhQuân đi điệp điệp trùng trùngÁnh sao đầu súng bạn cùng mũ đoàn binh “điệp điệp, trùng trùng” tiên đi. Trong họ là cả một bầu dũng khí Cảnh tượng đoàn quân đông đảo, trùng điệp như những dãy núi kế tiếp nhau. Miêu tả cảnh hành quân, nhà thơ sử dụng cụm từ “điệp điệp, trùng trùng”. Có lẽ chẳng còn từ ngữ nào có thể diễn tả được sức mạnh của đoàn binh hơn thế. Trong đoàn quân đó có những con người không chi biết cầm súng chiến đấu mà còn có tâm hồn lãng mạn. Họ làm bạn với trăng sao. Trong đêm tối, ánh sao soi đường cho các chiến sĩ, chia sẻ với họ những tâm tư tình cảm. Cảnh thật đẹp và mơ mộng quả, không gian đang sục sôi bỗng như lặng đi trước một cảnh tượng đậm chất lãng mạn. m điệu câu thơ trở nên trầm lắng. Hình ảnh “ánh sao đầu súng” không mới. Chính Hữu đã từng viếtĐầu súng trăng treoSong sự chuyển đổi nhịp nhàng giữa hai câu thơ “Quân đi điệp điệp trùng trùng / Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” khiến hình ảnh người lính bỗng đẹp thêm lên. Ở họ có cốt cách của người chiến sĩ và tâm hồn của người thi sĩ. Họ thật đáng cảm phục biết bao. Trong đêm tối hình ảnh đoàn binh hiện lên càng rõ nét. Họ làm chủ đất trời, vũ trụ bao la. Đó là những con người anh hùng của mảnh đất anh hùng. Cùng với bộ đội chủ lực, những đoàn dân công cũng xung phong ra tiền tuyếnDân công đỏ đuốc từng đoànBước chân nát đá, muôn tàn lửa đuốc bập bùng sáng lên trong đêm tối. Đoàn dân công trên con đường ra trận được miêu tả thật hùng dũng, hiên ngang. Họ muốn đem tiếng hát của mình, sức lực của mình góp chung vào sự nghiệp chung của dân tộc. Khắc họa hình tượng những đoàn dân công, tác giả sử dụng hình ảnh “Bước chân nát đá” cho thấy sức mạnh của họ thật phi thường. Muôn tàn lửa bay sau lưng họ như những khó khăn đã bị dẹp lại phía sau. Đoàn binh và những người dân công là hình ảnh tượng trưng cho quân dân Việt Nam. Với sức mạnh phi thường, dân tộc ta đã vượt quaNghìn đêm thăm thẳm sương dàyđể đón chào tương lai tươi sángĐèn pha bật sáng như ngày mai khăn gian khổ như bóng đêm đã khép lại. Trước mắt đoàn quân, ánh đèn pha bật sáng như niềm tín tưởng vào thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến và tương lai tươi sáng của dân tộc. Đoàn quân cứ bước đi trong niềm tin và hi vọng. Toàn bộ tâm trí và dũng khí của họ đều hướng về tương lai. Có thể nói, câu thơ thể hiện niềm lạc quan của nhà thơ và cũng là dự cảm về ngày chiến với một đoạn thơ ngắn, Tố Hữu đã tái hiện được vẻ đẹp anh hùng của nhân dân, núi rừng Việt Bắc nói riêng và sức mạnh anh hùng của dân tộc Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc chính là sức mạnh làm nên chiến thắng. Vì thế, đoạn thơ nói riêng, cả bài Việt Bắc nói chung mang âm hưởng sử thi khá đậm nét. Và đây cũng chính là một nét tiêu biểu của phong cách thơ Tố Hữu vừa giàu chất lí tưởng vừa ngọt ngào tha thiết và thấm đẫm chất dân tộc.Phạm Thúy Hồng Dẫn theo Trần Liên Quang, Đỗ Thị YênTrên đây là dàn ý và văn mẫu phân tích đoạn thơ Nhớ khi giặc đến giặc lùng .... Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng mà các em có thể tham khảo.
Phân tích đoạn thơ nhớ khi giặc đến giặc lùng – Tài liệu phân tích dưới đây sẽ giúp cho các em nắm được nội dung tác phẩm, phân tích chính xác từng luận điểm, luận cứ và hành văn mẫu phân tíchMở bàiThân bàiKết bàiVăn mẫu phân tích Mở bài Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam và là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Thơ ông có sự hòa quyện mềm mại giữa yếu tố chính trị và yếu tố thơ ca, vì vậy tác phậm vừa đậm chất trữ tình lãng mạn, vừa có yếu tố chính trị. Những tác phẩm của ông chủ yếu viết về cách mạng, con người cách mạng. Trong đó, tác phẩm Việt Bắc tiêu biểu cho thơ của Tố Hữu, được sáng tác trong hoàn cảnh cơ quan của Đảng chuyển từ Việt Bắc về Hà Nội. Trong đoạn trích “Nhớ khi giặc đến giặc lùng… Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng” là khúc ca ân nghĩa qua khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc được tác giả hồi tưởng đầy xúc động và ân tình. Thân bài Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù Cả khổ thơ tái hiện hoàn cảnh chiến tranh vô cùng căng thẳng và đày khó khăn. Nhớ khi giặc đến giặc lùng – một cảm xúc bao trùm đoạn thơ là nỗi nhớ. Khác với những đoạn trước, nỗi nhớ tràn ngập yêu thương da diết và đều là những cảm xúc hạnh phúc, bình yên. Thì trong câu thơ này, nỗi nhớ mang âm điệu sôi sục của này kháng chiến. Thời gian chiến đấu khắc nghiệt, hình dung ra cảnh giặc lùng từng chiến sĩ, căng thẳng vô cùng. Có như vậy mới biết các chiến sĩ cách mạng gan dạ và phải chiến đấu anh dũng thế nào để thoát khỏi họng súng của kẻ thù. Điều đáng nói, khi giặc đến lùng thì từ con người đến thiên nhiên đều trở thành “thần hộ vệ” cho các chiến sĩ. Cả rừng cây, núi đá đều cùng các chiến sĩ cách mạng đánh giặc, núi thì giăng thành lũy sắt dày, rừng thì che cho bộ đội ẩn mình để chống giặc. So với những đoạn thơ trước, đoạn thơ đã tạo nên một âm điệu sử thi hào hùng. Cả quân và dân và thiên nhiên núi rừng như hòa vào với nhau, tạo nên một khối sức mạnh vô cùng vững chãi, đồng lòng đánh quân xâm lược. Thiên nhiên núi rừng Tây Bắc không hề vô tri vô giác mà vô cùng sống động, thể hiện sự gắn bó, đồng lòng, đoàn kết cùng con người Việt Bắc bảo vệ các chiến sĩ cách mạng, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp giải phóng đất nước. Mênh mông bốn mặt sương mù Đất trời ta cả chiến khu một lòng Cả câu thơ mở ra một không gian vô cùng lớn, bốn mặt sương mù, sương giăng khắp nơi khiến cho khung cảnh mờ ảo và vô cùng hiểm nguy. Khung cảnh có phần uy linh nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Hình ảnh “Mênh mông bốn mặt sương mù” cũng thể hiện sự phát triển của kháng chiến, chiến khu giải phóng ngày càng rộn lớn hơn. Đặc biệt, không chỉ thiên nhiên núi rừng mà ngay cả đất trời cũng đều là của ta, đều một lòng chống giặc. Hàm ý câu thơ thứ hai chính là khẳng định chủ quyền của vùng giải phóng. Sông núi này là của chúng ta, đất trời này là của chúng ta và thực dân Pháp đang xâm phạm chủ quyền cần phải đánh đổi. Cả hai câu thơ cũng thể hiện sự đoàn kết, cùng hướng về đất nước của dân Việt Bắc nói riêng và dân ta nói chung trong cuộc kháng chiến trường kì này. Ai về ai có nhớ không ? Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà. Trong đoạn thơ này tác giả sử dụng câu hỏi tu từ, hỏi mà như không hỏi. Đọc qua thôi chúng ta cũng cảm nhận nỗi nhớ của người đi và kẻ ở. Các chiến sĩ cách mạng về xuôi không nguôi nhớ những người dân Việt Bắc đã bao bọc, cưu mang, che chở trong những năm gian khó. Và ngược lại, những con người Việt Bắc cũng không thể quên những người chiến sĩ cộng sản gan dạ, dám hi sinh vì tổ quốc. Sau câu hỏi tu từ là đại từ “Ta”, một đại từ thể hiện sự rộng lớn, đại diện cho một thế hệ, và khẳng định nỗi nhớ của Ta – những người chiến sĩ về xuôi dành cho đồng bào Việt Bắc là lớn lao, là cụ thể. Nhớ từ Phủ Thông đến đèo Giàng, từ sông Lo đến Phố Ràng, từ Cao lạng sang Nhị Hà. Nỗi nhớ trải dài khắp miền Việt Bắc, cho thấy một tình cảm thâm sâu và in đậm trong trí nhớ. Đây cũng là những địa danh ghi lại những chiến công hào hùng của dân tộc. Đó là sự kiện Phủ Thông – Đèo Giàng – nơi diễn ra các trận hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Sông lô – phố Ràng nơi đánh tàu chiếm Pháp trong chiến dịch Việt Bắc và trận đánh đồn Phố Ràng. Riêng địa danh Cao Bằng, lạng sơn thì ta mở chiến dịch giải phóng biên giới Việt trung. Như vậy, trong nỗi nhớ còn chứa đựng niềm tự hào về những chiến công hào hùng, càng khẳng định vai trò của con người quan trọng biết nhường nào. Điệp từ nhớ nghe nhẹ nhàng mà sâu lắng, lúc trầm, lúc bổng, lúc mãnh liệt, và trong khổ thơ này đây nỗi nhớ là sự biết ơn đến những người đã hi sinh trong các trận chiến và sự tự hào về Việt Bắc – cái nôi cách mạng đã nuôi dưỡng những con người lý tưởng của Đảng. Những đường Việt Bắc của ta êm đêm rầm rập như là đất rung Sang khổ thơ tiếp tác giả đã mở rộng thêm không gian của Việt Bắc. Việt Bắc trở thành con đường cách mạng lí tượng, rộng thêm, dài thêm, và đêm đêm râm rập tiếng hành quân. Hai câu thơ cho thấy khí thế hào hùng làm rung chuyển đất trời, càng khẳng định sức mạnh của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến, đã sẵn sàng bước vào trận chiến. Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Nghìn đêm thăm thẳm sương dày èn pha bật sáng như ngày mai lên. Qua khổ thơ chúng ta cảm nhận được một đội quân hùng dũng, đang bước đi thật đều với một tâm thế sẵn sàng bước vào chiến trận. Từ láy “điệp điệp trùng trùng” cho thấy những đoàn quan nối tiếp nhau tạo thành những đợt sóng trào kéo dài vô tận. Đặc biệt hình ảnh “ánh sao đầu súng” một hình ảnh gợi nhiều liên tưởng. Trong gian khó vẫn có sự lãng mạn, sự lạc quan ,tin tưởng vào tự do, vào tương lai. Hình ảnh này khiến chúng ta liên tưởng đến câu thơ “Trăng treo đầu súng” trong bài thơ đồng chí. Thiên nhiên đã đồng hành cùng chiến sĩ, ánh sao chính là lý tưởng soi sáng, mang đến tinh thần lạc quan, tràn đầy khí thế. Tiếp sang câu thơ sau chúng ta thấy được hình dân quân với những ngọn đuốc sáng bừng, soi đường, tiếp lương, tải đạn với đầy đủ già trẻ trai gái… Họ bước đi hiên ngang không sợ hãi, không chùn bước, hình tượng bước chân nát đá cho thấy sự dũng mãnh, khẩn trương, không nề hà gian khổ. Có thể nói đội dân quân hùng hậu cũng góp phần rất lớn vào sự đấu tranh giành độc lập của dân tộc. Cả khổ thơ là sự hào hùng, khí thế, mạnh mẽ của quân và dân ta, vượt qua mọi khó khăn chông gai, sẵn sàng chiến đấu chống giặc. Tiếp sang hình ảnh của đoàn ô tô quân sự, xe kéo pháo, chở súng đạn, thuốc men lương thực rùng rùng ra trận. Trong đêm tối, ánh đèn pha chiếu sáng không chỉ xuyên thủng màn đêm mà còn soi sáng tư tưởng xuyên qua những đêm dài tăm tối. Câu thơ “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” cính là ngụ ý nói đến những khó khăn vất vả thiếu thốn trong hiện tại và quá khứ và giờ đây được ánh sáng của Đảng chiếu sáng, xóa đi những đêm tăm tối, thoát khỏi kiếp vùng lầy nô lệ. Với nhịp điệu thơ dồn dập, mạnh mẽ, gấp gáp hào hùng sôi động và đoạn thơ tràn ngập ánh sáng của đèn xe, của ngôi sao, của đuốc đặc biệt là ánh sáng của niềm tin. Tất cả tạo nên một khúc hùng ca chiến thắng. Tin vui chiến thắng trăm miền Hoà Bình, Tây Bắc, iện Biên vui về Vui từ ồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. Trong đoạn thơ này tác giả thể hiện một trạng thái vui mừng tả xiết, tự hào khi tin vui chiến thắng đổ dồn dập từ mọi miền đất nước từ miền núi đến đồng bằng, từ bắc tới nam. Niềm vui khó tả xiết, đọc câu thơ người đọc cũng vui lây với tác giả và những con người thời ấy. Nhịp điệu thơ dồn dập, vui tươi cho thấy tốc độ thần kì, nhanh chóng của chiến thắng. Giọng thơ say mê, náo nực ngập tràn vui sướng. Đây là niềm vui sướng của hàng triệu con người từ Bắc tới Nam. Kết bài Đoạn thơ đã nói lên nỗi lòng của tác giả đằng sau nỗi nhớ ấy là những tâm tư tình cảm của nhà thơ dành cho đồng bào Việt Bắc. Đặc biệt, đoạn thơ là sự kết hợp khéo léo hài hòa của chất trữ tình và chính trị, biểu hiện rõ trong nỗi nhớ người ra đi và thể hiện qua sự vận động từ nội dung đến nghệ thuật. Một lần nữa khẳng định, đoạn trích trên chính là khúc ca ân nghĩa, hùng tráng của Việt Bắc trong kháng chiến. Khúc ca ấy qua hồi tưởng của tố Hữu không chỉ hào hùng mà còn rất đậm tình nghĩa, ân tình. Chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước, nhưng nhìn lại vẫn thấy vô cùng biết ơn những con người Việt Bắc đã cưu mang, nhờ có họ, nhờ có mảnh đất này mà dân quân ta mới có thể dành chiến thắng trước kẻ thù.
Văn mẫu phân tích Mở bài Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam và là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Thơ ông có sự hòa quyện mềm mại giữa yếu tố chính trị và yếu tố thơ ca, vì vậy tác phậm vừa đậm chất trữ tình lãng mạn, vừa có yếu tố chính trị. Những tác phẩm của ông chủ yếu viết về cách mạng, con người cách mạng. Trong đó, tác phẩm Việt Bắc tiêu biểu cho thơ của Tố Hữu, được sáng tác trong hoàn cảnh cơ quan của Đảng chuyển từ Việt Bắc về Hà Nội. Trong đoạn trích “Nhớ khi giặc đến giặc lùng… Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng” là khúc ca ân nghĩa qua khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc được tác giả hồi tưởng đầy xúc động và ân tình. Thân bài Nhớ khi giặc đến giặc lùngRừng cây núi đá ta cùng đánh TâyNúi giăng thành lũy sắt dàyRừng che bộ đội rừng vây quân thùCả khổ thơ tái hiện hoàn cảnh chiến tranh vô cùng căng thẳng và đày khó khăn. Nhớ khi giặc đến giặc lùng – một cảm xúc bao trùm đoạn thơ là nỗi nhớ. Khác với những đoạn trước, nỗi nhớ tràn ngập yêu thương da diết và đều là những cảm xúc hạnh phúc, bình yên. Thì trong câu thơ này, nỗi nhớ mang âm điệu sôi sục của này kháng chiến. Thời gian chiến đấu khắc nghiệt, hình dung ra cảnh giặc lùng từng chiến sĩ, căng thẳng vô cùng. Có như vậy mới biết các chiến sĩ cách mạng gan dạ và phải chiến đấu anh dũng thế nào để thoát khỏi họng súng của kẻ đáng nói, khi giặc đến lùng thì từ con người đến thiên nhiên đều trở thành “thần hộ vệ” cho các chiến sĩ. Cả rừng cây, núi đá đều cùng các chiến sĩ cách mạng đánh giặc, núi thì giăng thành lũy sắt dày, rừng thì che cho bộ đội ẩn mình để chống giặc. So với những đoạn thơ trước, đoạn thơ đã tạo nên một âm điệu sử thi hào hùng. Cả quân và dân và thiên nhiên núi rừng như hòa vào với nhau, tạo nên một khối sức mạnh vô cùng vững chãi, đồng lòng đánh quân xâm lược. Thiên nhiên núi rừng Tây Bắc không hề vô tri vô giác mà vô cùng sống động, thể hiện sự gắn bó, đồng lòng, đoàn kết cùng con người Việt Bắc bảo vệ các chiến sĩ cách mạng, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp giải phóng đất mông bốn mặt sương mùĐất trời ta cả chiến khu một lòngCả câu thơ mở ra một không gian vô cùng lớn, bốn mặt sương mù, sương giăng khắp nơi khiến cho khung cảnh mờ ảo và vô cùng hiểm nguy. Khung cảnh có phần uy linh nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Hình ảnh “Mênh mông bốn mặt sương mù” cũng thể hiện sự phát triển của kháng chiến, chiến khu giải phóng ngày càng rộn lớn hơn. Đặc biệt, không chỉ thiên nhiên núi rừng mà ngay cả đất trời cũng đều là của ta, đều một lòng chống ý câu thơ thứ hai chính là khẳng định chủ quyền của vùng giải phóng. Sông núi này là của chúng ta, đất trời này là của chúng ta và thực dân Pháp đang xâm phạm chủ quyền cần phải đánh đổi. Cả hai câu thơ cũng thể hiện sự đoàn kết, cùng hướng về đất nước của dân Việt Bắc nói riêng và dân ta nói chung trong cuộc kháng chiến trường kì về ai có nhớ không ?Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo GiàngNhớ sông Lô, nhớ Phố RàngNhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị đoạn thơ này tác giả sử dụng câu hỏi tu từ, hỏi mà như không hỏi. Đọc qua thôi chúng ta cũng cảm nhận nỗi nhớ của người đi và kẻ ở. Các chiến sĩ cách mạng về xuôi không nguôi nhớ những người dân Việt Bắc đã bao bọc, cưu mang, che chở trong những năm gian khó. Và ngược lại, những con người Việt Bắc cũng không thể quên những người chiến sĩ cộng sản gan dạ, dám hi sinh vì tổ quốc. Sau câu hỏi tu từ là đại từ “Ta”, một đại từ thể hiện sự rộng lớn, đại diện cho một thế hệ, và khẳng định nỗi nhớ của Ta – những người chiến sĩ về xuôi dành cho đồng bào Việt Bắc là lớn lao, là cụ thể. Nhớ từ Phủ Thông đến đèo Giàng, từ sông Lo đến Phố Ràng, từ Cao lạng sang Nhị Hà. Nỗi nhớ trải dài khắp miền Việt Bắc, cho thấy một tình cảm thâm sâu và in đậm trong trí cũng là những địa danh ghi lại những chiến công hào hùng của dân tộc. Đó là sự kiện Phủ Thông – Đèo Giàng – nơi diễn ra các trận hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Sông lô – phố Ràng nơi đánh tàu chiếm Pháp trong chiến dịch Việt Bắc và trận đánh đồn Phố Ràng. Riêng địa danh Cao Bằng, lạng sơn thì ta mở chiến dịch giải phóng biên giới Việt trung. Như vậy, trong nỗi nhớ còn chứa đựng niềm tự hào về những chiến công hào hùng, càng khẳng định vai trò của con người quan trọng biết nhường từ nhớ nghe nhẹ nhàng mà sâu lắng, lúc trầm, lúc bổng, lúc mãnh liệt, và trong khổ thơ này đây nỗi nhớ là sự biết ơn đến những người đã hi sinh trong các trận chiến và sự tự hào về Việt Bắc – cái nôi cách mạng đã nuôi dưỡng những con người lý tưởng của đường Việt Bắc của taêm đêm rầm rập như là đất rungSang khổ thơ tiếp tác giả đã mở rộng thêm không gian của Việt Bắc. Việt Bắc trở thành con đường cách mạng lí tượng, rộng thêm, dài thêm, và đêm đêm râm rập tiếng hành quân. Hai câu thơ cho thấy khí thế hào hùng làm rung chuyển đất trời, càng khẳng định sức mạnh của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến, đã sẵn sàng bước vào trận đi điệp điệp trùng trùngÁnh sao đầu súng bạn cùng mũ nanDân công đỏ đuốc từng đoànBước chân nát đá, muôn tàn lửa đêm thăm thẳm sương dàyèn pha bật sáng như ngày mai khổ thơ chúng ta cảm nhận được một đội quân hùng dũng, đang bước đi thật đều với một tâm thế sẵn sàng bước vào chiến trận. Từ láy “điệp điệp trùng trùng” cho thấy những đoàn quan nối tiếp nhau tạo thành những đợt sóng trào kéo dài vô tận. Đặc biệt hình ảnh “ánh sao đầu súng” một hình ảnh gợi nhiều liên tưởng. Trong gian khó vẫn có sự lãng mạn, sự lạc quan ,tin tưởng vào tự do, vào tương lai. Hình ảnh này khiến chúng ta liên tưởng đến câu thơ “Trăng treo đầu súng” trong bài thơ đồng chí. Thiên nhiên đã đồng hành cùng chiến sĩ, ánh sao chính là lý tưởng soi sáng, mang đến tinh thần lạc quan, tràn đầy khí sang câu thơ sau chúng ta thấy được hình dân quân với những ngọn đuốc sáng bừng, soi đường, tiếp lương, tải đạn với đầy đủ già trẻ trai gái… Họ bước đi hiên ngang không sợ hãi, không chùn bước, hình tượng bước chân nát đá cho thấy sự dũng mãnh, khẩn trương, không nề hà gian khổ. Có thể nói đội dân quân hùng hậu cũng góp phần rất lớn vào sự đấu tranh giành độc lập của dân khổ thơ là sự hào hùng, khí thế, mạnh mẽ của quân và dân ta, vượt qua mọi khó khăn chông gai, sẵn sàng chiến đấu chống sang hình ảnh của đoàn ô tô quân sự, xe kéo pháo, chở súng đạn, thuốc men lương thực rùng rùng ra trận. Trong đêm tối, ánh đèn pha chiếu sáng không chỉ xuyên thủng màn đêm mà còn soi sáng tư tưởng xuyên qua những đêm dài tăm tối. Câu thơ “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” cính là ngụ ý nói đến những khó khăn vất vả thiếu thốn trong hiện tại và quá khứ và giờ đây được ánh sáng của Đảng chiếu sáng, xóa đi những đêm tăm tối, thoát khỏi kiếp vùng lầy nô nhịp điệu thơ dồn dập, mạnh mẽ, gấp gáp hào hùng sôi động và đoạn thơ tràn ngập ánh sáng của đèn xe, của ngôi sao, của đuốc đặc biệt là ánh sáng của niềm tin. Tất cả tạo nên một khúc hùng ca chiến vui chiến thắng trăm miềnHoà Bình, Tây Bắc, iện Biên vui vềVui từ ồng Tháp, An KhêVui lên Việt Bắc, đèo De, núi đoạn thơ này tác giả thể hiện một trạng thái vui mừng tả xiết, tự hào khi tin vui chiến thắng đổ dồn dập từ mọi miền đất nước từ miền núi đến đồng bằng, từ bắc tới nam. Niềm vui khó tả xiết, đọc câu thơ người đọc cũng vui lây với tác giả và những con người thời điệu thơ dồn dập, vui tươi cho thấy tốc độ thần kì, nhanh chóng của chiến thắng. Giọng thơ say mê, náo nực ngập tràn vui sướng. Đây là niềm vui sướng của hàng triệu con người từ Bắc tới Nam. Kết bài Đoạn thơ đã nói lên nỗi lòng của tác giả đằng sau nỗi nhớ ấy là những tâm tư tình cảm của nhà thơ dành cho đồng bào Việt Bắc. Đặc biệt, đoạn thơ là sự kết hợp khéo léo hài hòa của chất trữ tình và chính trị, biểu hiện rõ trong nỗi nhớ người ra đi và thể hiện qua sự vận động từ nội dung đến nghệ lần nữa khẳng định, đoạn trích trên chính là khúc ca ân nghĩa, hùng tráng của Việt Bắc trong kháng chiến. Khúc ca ấy qua hồi tưởng của tố Hữu không chỉ hào hùng mà còn rất đậm tình nghĩa, ân tình. Chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước, nhưng nhìn lại vẫn thấy vô cùng biết ơn những con người Việt Bắc đã cưu mang, nhờ có họ, nhờ có mảnh đất này mà dân quân ta mới có thể dành chiến thắng trước kẻ thù.
phân tích nhớ khi giặc đến giặc lùng